Thursday, February 11, 2021

Tập tễnh đi trên con đường AI

Cách đây hơn 10 năm, tôi cũng có học qua về Neural Network (tự học là chủ yếu, chứ không có thầy dạy). Tui cũng mày mò được Matlab Simulink mô phỏng quá trình forward và back propagation của các neuron. Tui thấy Neural Network cũng hay hay nhưng chưa áp dụng gì vào thời điểm đó. Lúc đó cũng chưa có những khái niệm hot trend như Data Science như bây giờ. Bẵng đi thời gian không dùng, tui bắt đầu mày mò lại Neural Network như một kẻ ngoại đạo, không có kiến thức nền tảng. 

Introduction to Artificial Intelligence | Let's Talk Science

Nhưng hay quá, mạng xã hội và MOOCs đã trao cho tôi cơ hội tự học và học tập suốt đời. Tui tìm đến các courses của Andrew Ng, người mà tui cũng đã biết hơn 10 năm trước đó, bắt đầu học AI for everyone. Tui suggest các bạn mới bắt đầu và không có nền như tui học các courses của Andrew Ng tại Cousera hoặc deeplearning.ai (link: https://www.deeplearning.ai/). Vì tui mới tập tành nên không hiểu gì nhiều nên trên con đường cầu đạo (đường đi), tui cũng mong hợp tác với những người đồng hành. Từ AI, tui sẽ bén sang mảng Data Science trong tương lai, để giải quyết những bài toán và viết lên những câu chuyện trong kinh doanh và kinh tế.

Vài dòng tự sự cuối năm.

Hải Tuệ,

 

Thursday, January 21, 2021

CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN

 

 

Công nghệ blockchain hay còn gọi là chuỗi khối là một trong những công nghệ làm thay đổi thế giới trong thế kỷ 21, và tác động đến nhiều ngành trong nhiều lĩnh vực, từ tài chính đến sản xuất, thậm chí là giáo dục. Lịch sử hình thành của blockchain có thể được tính từ đầu những năm 1990s, khi có một số các học giả nhà nghiên cứu  như Stuart Haber và W. Scott Stornetta đã đưa ra những đề xuất giải pháp đánh dấu văn bản để không thể can thiệp thay đổi ngày giờ. Sau đó các học giả đã nâng cấp khi tích hợp cây Merkle tập hợp các tài liệu trong một block. Đến cuối năm 2008, tác giả nạc danh Satoshi Nakamoto đã  đề nghị hệ thống tiền điện tử peer-to-peer, mở đầu cho thời đại tiền ảo (cryptocurrency) có tên là Bitcoin. Bitcoin ứng dụng công nghệ nhật ký điện tử và giữa các cá nhân hay nhóm cá nhân trao đổi trực tiếp với nhau bằng đồng tiền ảo mà không có trung gian. Với tính chất phi tập trung này thì không có ai làm chủ một hệ thống mà ở đó các các nodes có vai trò ngang nhau. Sự phát triển của blockchain đã trải qua 3 giai đoạn:

2008-2013: Blockchain 1.0: Sự ra đời của blockchain

Nhiều người lầm tưởng giữa Bitcoin và công nghệ blockchain là một. Điều này là không đúng. Thực chất là Bitcoin là một phần ứng dụng dựa trên công nghệ blockchain. Nakamoto hình thành nên các khối, và các khối khác được đào và kết nối với chuỗi đang có để hình thành nên một mạng lưới lớn. Bitcoin là một ứng dụng của blockchain và sau này những ứng dụng của công nghệ blockchain đã mở ra các ứng dụng đa dạng dựa trên công nghệ nhật ký điện tử (digital ledger technology).

2013-2015: Blockchain 2.0: Phát triển Ethereum.

Trong một thế giới luôn luôn cải tiến, Vitalik Buterin là một trong những người p mở rộng Bitcoin và thúc đẩy hoàn thiện công nghệ blockchain. Vitalik được xem là một trong người đầu tiên đóng góp vào cơ sở lập trình Bitcoin. Những hạn chế của Bitcoin là những sai lỗi trong blockchain khi tương tác với nhiều chức năng trong mạng P2P. Ethereum ra đời để khắc phục những hạn chế của Bitcoin và bổ sung những chức năng cho Bitcoin, đánh dấu một mốc phát triển mới của lịch sử bitcoin.

Khác với Bitcoin, Ethereum cho phép người dùng có thể ghi lại những tài sản của người khác như slogan hay bản hợp đồng. Đặc tính này mở rộng chức năng Ethereum từ tiền ảo sang một dạng platform phát triển những ứng dụng phân tán. Ethereum chính thức ra đời từ 2015, Ethereum blockchain trở thành một trong những ứng dụng chính từ công nghệ blockchain hỗ trợ cho hợp đồng thông minh (smart contracts). Nền tảng blockchain etherem thu hút nhiều người tham gia phát triển cộng đồng sử dụng hình thành hệ sinh thái. Nhờ ứng dụng phân tán và hợp đồng thông minh, ethereum blockchain có thể tạo ra khối lượng lớn giao dịch hàng ngày, góp phần gia tăng không gian tiền ảo.

2018-: Blockchain 3.0: Tương lai

Lịch sử phát triển của blockchain, trong đó có Bitcoin và Ethereum, phát triển như vũ bão. Trong những năm gần đây, nhiều dự án thúc gần đây thúc đẩy sự phát triển blockchain bằng cách mở rộng và thêm các ứng dụng.

Một vài ứng dụng mới như NEO, nền tảng mã nguồn mở đầu tiên, phi tập trung của Trung Quốc. Mặc dầu là nước cấm tiền ảo, nhưng Trung Quốc vẫn chủ động có những cải tiến trong blockchain. NEO được xem là Ethereum của Trung Quốc được hỗ trợ từ CEO Jack Ma Alibaba.

Với sự gia tăng của kết nối vạn vật Internet of Things, các nhà phát triển thúc đẩy công nghệ blockchain trong xử lý IOTA. Nền tảng tiền ảo được tối ưu cho hệ sinh thái kết nối vạn vật. Nền tảng tiền ảo giúp giúp dịch với chi phí bằng 0 và chứng thực duy nhất.

Bên cạnh IOTA và NEO, nền tảng blockchain thứ hai cũng có tác động lớn. Monero Zcash và Dash blockchain phát triển hơn về mặt bảo mật và quy mô. Các doanh nghiệp lớn ngày nay cũng thuê những chuyên gia phát triển blockchain. Công ty như Microsoft dẫn đầu trong việc khai phá những ứng dụng công nghệ blockchain.

Blockchain Wallpapers - Top Free Blockchain Backgrounds - WallpaperAccess

Công nghệ blockchain có một tương lai sáng khi mà chính phủ cũng như doanh nghiệp tham gia đầu tư nghiên cứu phát triển những ứng dụng. Trong lương lai gần blockchain trở nên phổ biến cho mọi người. Theo dự báo của Gartner đến năm 2020 giá trị dự kiến của blockchain của thế giới chiếm 10 tỷ đô, đến 2025 là 176 tỷ đô, và năm 2030 là 3.1 triệu tỷ đô.

Nguồn: https://101blockchains.com/history-of-blockchain-timeline/#prettyPhoto

Tuesday, December 29, 2020

OKR

Công cụ OKR - Objectives and Key Results - Mục đích và chỉ số trọng yếu. Đây là công cụ được google phát triển và áp dụng. Từ khi áp dụng công cụ này, google gặt hái được nhiều thành công trong công việc quản trị. 

Công cụ OKR khiến cho nhân viên trong công ty trở nên phấn khởi và háo hức với công việc. Công việc được đặt ra có mục đích và có thể đạt được. Khi đạt được những chỉ tiêu, nhân viên có những khoản thưởng. Điều này gắn kết công việc của cá nhân gắn liền với mục tiêu của tổ chức. Nếu tổ chức làm thay đổi ý thức làm việc của nhân viên là một việc khó, thì xây dựng một hệ thống trong đó có OKR là công việc dễ dàng hơn trong việc thúc đẩy nhân viên làm việc. 

Các mục đích (Objectives) phải đủ ba điều kiện: Có tính thách thức, có tính hấp dẫn, và có tính nhất quán giữa các bộ phận, phòng ban trong công ty.  

Các chỉ số trọng yếu (Key Results) phải đủ bốn đáp ứng: Kết nối với mục đích, có khả năng đo lường được, có khả năng đạt được nhưng không dễ dàng, tập trung vào những điểm cần thiết. 

Một mục đích thường có ba chỉ số trọng yếu. Ví dụ tại bộ phận sản xuất.

O: Đạt được mức chi phí thấp nhất trong ngành bằng cách tinh gọn quá trình sản xuất.

KR 1: Xem xét quy trình sản phẩm hàng tháng.....

KR 2: Giá thành sản phẩm giảm  .....%

KR 3: Tỷ lệ thất bại ....% 


Hai Tue,


Saturday, December 19, 2020

Key Performance Indicator (KPI)

 Key Performance Indicator = Chỉ số thành tích trọng yếu

Đây là một trong những công cụ đo lường thành tích tổ chức cũng như cá nhân trong doanh nghiệp phổ biến hiện nay.  KPI được phát triển bởi Văn phòng chính phủ Úc năm 1996. Công cụ tương tự với KPI như Balanced Scorecard, được phát triển bởi Mỹ năm 1992; Tableau de Bord của Pháp năm 1930s, Hoshin Kanri của Nhật. 

KPI được xem như là cốt lõi của việc đo lường doanh nghiệp. Vì vậy KPI là "chìa khóa" nên chỉ có một. Người ta thường hay đặt rất nhiều các chỉ số để đo lường nhưng điều đó gây tác dụng ngược cho quản lý. Vì vậy sử dụng KPI chỉ chọn một hoặc cùng lắm là hai và ba chỉ tiêu đo lường, không quá nhiều gây xao lãng và không tập trung. Ví dụ như để đo lường KPI của một hãng hàng không thì người ta lấy chỉ số là thời gian delay. Thời gian delay của các chuyến bay càng ít càng tốt. Thời gian bị delay thể hiện tất các các thông số kéo theo trong vận hành và quản lý các chuyến bay. 

KPI có thể là các chỉ số về tài chính hoặc phi tài chính. KPI phải dễ đo lường, con số phải dễ nhớ, và có tính thách thức cho người thực hiện. KPI được mong chờ là tạo nên động cơ và sự háo hức của nhân viên trong làm việc. Dựa vào KPI, doanh nghiệp có những chính sách về lương thưởng tương xứng. 

Các chỉ số KPI phải được đo lường hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần. Đo lường hàng tháng, hàng quý, hàng năm không phải chỉ số của KPI. KPI định hướng hiện tại và tương lai chứ không định hướng quá khứ. 

Để xây dựng một KPI tốt cho doanh nghiệp, trước tiên cần phải xác định rõ CSF (Critical Success Factor) và KGI (Key Goal Indicators). Sau khi xác định CSF thì tiến hành thu gọn các chỉ số này và quyết định chọn một chỉ số làm KPI. Và KPI chính là chỉ số dẫn hướng đến thành tích cuối cùng của tổ chức, đó là KGI. Ví dụ doanh thu của doanh nghiệp không phải là một KPI mà đó là KGI. Phải tìm hiểu rõ cái gì dẫn đến doanh thu tăng. Sau đó xác định KPI. KGI là con số "tĩnh" trong khi đó KPI là con số "động" và được cập nhật theo thời gian thực. KPI có độ trễ trong báo cáo thì không phải đó là KPI. 

KPI là giá trị điều phối để đạt được KGI. Có một khoảng cách của KGI và giá trị mong chờ, được gọi là GAP. Nếu không có GAP này thì sẽ không có KPI. KPI cũng nên là con số mang tính tuyệt đối chứ không phải là chỉ số tương đối.

KPI là một câu chuyện dài trong doanh nghiệp. Việc ứng dụng KPI cũng gây không ít khó khăn cho nhân viên khi tiếp cận công cụ đánh giá mới. Thông thường thì người ta ngại được đánh giá. Nên triển khai KPI cũng gặp không ít vấn đề. Nhưng trong quản trị, nếu muốn thúc đẩy nhân viên làm việc lao động một cách háo hức, và thực hiện nguyên tắc pay-for-performance thì KPI chính là một trong những công cụ không thể thiếu được dùng trong doanh nghiệp. 

Hải Tuệ,

 

Sustainable Entrepreneurship

Khởi nghiệp bền vững Phân biệt khởi nghiệp sinh thái, khởi nghiệp xã hội, khởi nghiệp thể chế và khởi nghiệp bền vững.    Sơ đồ ý niệm biểu...